2 Bài văn mẫu Phân tích câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến đạt 10 Điểm

“ Câu cá mùa thu” hay còn gọi là Thu Điếu là một tác phẩm nổi tiếng trong chương trình Ngữ Văn lớp 11. Sau khi học xong tác phẩm có lẽ nhiều bạn vẫn chưa hiểu hết được ý nghĩa của nó. Hôm nay mình sẽ phân tích câu cá mùa thu kĩ hơn để các bạn có thể nắm rõ. Hãy theo dõi kĩ nhé.

phân tích câu cá mùa thu
phân tích câu cá mùa thu

Bài mẫu Phân tích câu cá mùa thu 1

Nguyễn Khuyến được biết đến nhiều nhất với chùm thơ thu gồm.ba bài thơ bằng tiếng Nôm một trong số đó chính là “ Câu cá mùa thu” . Xuyên suốt bài thơ là một nét thu đẹp tĩnh lặng nơi làng  quê thời xa xưa, biểu lộ một nét cô đôn trong tâm hồn một nhà Nho yêu quê hương yêu đất nước thời bấy giờ. Sau khoảng thời gian ông từ quan về quê nhà, một loạt nhưxng tác phẩm ra đời như “ Thu điếu”, “ Thu ẩm” , “ Thu vịnh”.

Mở đầu bài thơ là hai câu thơ 

“ Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”

Chỉ cần đọc hai câu thơ ta có thể tưởng tượng ra cảnh sắc mùa thu, một không gian nghệ thuật đang bao trùm xung quanh chúng ta. Nước trong veo của ao có thể giúp ta nhìn xuyên thấu được qua lòng ao, một không khí lạnh lẽo đang lan tỏa ra khắp không gian. Không còn cái se lạnh đầu thu nữa mà là đã thu phân, thu mạt rồi nên mới lạnh lẽo như vậy. Không biết từ bao giờ mà trên lòng ao đã xuất hiện một chiếc thuyền câu giữa không gian bao la rộng lớn dường như sự cô đơn của chiếc thuyền đang lan tỏa rộng ra khắp không gian. Bé tẻo teo nghĩa là rất bé nhỏ; âm điệu của vần thơ cũng gợi ra sự hun hút của cảnh vật (trong veo – bé tẻo teo). Đó là một nét thu đẹp và êm đềm. Tiếp đó cùng bước vào thế giới nghệ thuật của hai câu thơ tiếp theo: 

“ Sóng nước theo làn hơi gợn tí 

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”

Hai câu thơ đang gợi tả cảnh vật xung quanh theo không gian hai chiều có thể nhìn bằng mắt là sóng đang gợn và tai có thể nghe thấy tiếng lá được gió đưa vèo. Vô cùng mộc mạc giản gị nhưng cũng có thể  cho người ta thấy được sự hài hòa của màu sắc được tác giả miêu tả có sóng biếc có lá vàng. Gió thổi nhẹ cũng đủ làm cho chiếc lá thu màu vàng khẽ đưa vèo, làm cho sóng biếc lăn tăn từng làn từng làn hơi gợn tí. Ngoài ra bên cạnh đó tác giả còn kết hợp sử dụng phép đối một cách vô cùng tài tình giúp cho nét thu được nhấn mạnh giúp người đọc có thể hình dung ra không gian mà tác giả đang miêu tả như đang ở trước mặt mình một cách vô cùng chân thực và rõ nét. Phải công nhận một điều là ngòi bút của tác giả Nguyễn Khuyến vô cùng tinh tế trong dùng từ và cảm nhận, lấy cái lăn tăn của sóng hơi gợn tí phối cảnh với độ bay xoay xoay khẽ đưa vèo của chiếc lá thu. Chữ vèo là một nhân tự mà sau này thi sĩ Tản Đà vừa khâm phục, vừa tâm đắc. Ông thổ lộ một đời thơ mới có được một câu vừa ý: vèo trông lá rụng đầy sân (cảm thu, tiễn thu). Chưa dừng lại ở đấy Nguyễn Khuyến còn giúp chúng ta mở rộng tầm mắt hơn ở hai câu thơ tiếp theo:

“ Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”

Một bầu trời xanh ngắt và thăm thẳm bao la và rộng lớn đang bao trùm lấy không gian nơi đây. Những áng mây  đang lẳn lặng trôi trên bầu trời rộng lớn như đang nhấn mạnh sự rộng lớn của không gian nơi đây. Thoáng đãng, êm đềm, tĩnh lặng và nhẹ nhàng. Không một bóng người lại qua trên con đường làng đi về các ngõ xóm: Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Vắng teo nghĩa là vô cùng vắng lặng không một tiếng động nhỏ nào, cũng gợi tả sự cô đơn, trống vắng. Ngõ trúc trong thơ Tam nguyên Yên Đổ lúc nào cũng gợi tả một tình quê nhiều bâng khuâng, man mác:

Dặm thế, ngõ đâu từng trúc ấy
Thuyền ai khách đợi bến đâu đây?
(Nhớ núi Đọi)

Có lẽ một trong những sự vật quen thuộc với hình ảnh làng quê đó là ngõ trúc và tầng mây. Hai sự vật này đã từng xuất hiện rất nhiều trong các tác phẩm nghệ thuật. Có vẻ như tác giả đang tự hòa mình và đắm chìm vào trong cảnh sắc nơi đây nên mới có thể miêu tả một cách vô cùng chân thực như  vậy được. Đến hai câu kết thì bức tranh thu mới xuất hiện một đối tượng khác:

“ Tựa gối ôm cần lâu chẳng được 

Cá đâu đớp động dưới chân bèo”

Thu điếu nghĩa là mùa thu câu cá. Sáu câu đầu mới chỉ có cảnh vật: ao thu, chiếc thuyền câu, sóng biếc, lá vàng, tầng mây, ngõ trúc.. Hình ảnh người câu cá đến tận phần cuối cùng mới thấy xuất hiện với một tư thế tựa gối ôm cần vô cùng nhàn nhã. Trong tâm thế đợi chờ lâu chẳng được bỗng nhiên tác giả bỗng nhiên chợt tỉmh vì nghe thấy tiếng cá đớp động dưới chân bèo. Sự chờ đợi đã từ rất láu mãi đến bây giờ đã có một chút kết quả. Người câu cá như đang không quan tâm đến mọi thứ tạp niệm chỉ tập trung hòa mình vào trong không gian bây giờ, trong cảnh sắc vô cùng tuyệt đẹp, và trong giấc mộng mùa thu. Người đọc nghĩ về một Lã Vọng câu cá chờ thời bên bờ sông Vị hơn mấy nghìn năm về trước. Chỉ có một tiếng cá đớp động sau tiếng lá thu đưa vèo, đó là tiếng thu của làng quê xưa. Âm thanh ấy hòa quyện với một tiếng trên không ngỗng nước nào, như đưa hồn ta về với mùa thu quê hương. Người câu cá đang sống trong một tâm trạng cô đơn và lặng lẽ buồn. Một cuộc đời thanh bạch, một tâm hồn thanh cao đáng trọng.

Thu điếu là một trong những tác phẩm quá tuyệt vời của tác giả Nguyễn Khuyến. Xuân Diệu đã từng bộc bạch rằng trong Thu điếu có một nét diệu xanh mà người tả không tài nào hiểu hết vẻ đẹp, vẻ tinh túy của nó được.  Có xanh ao, xanh sóng, xanh trời, xanh tre, xanh bèo… và chỉ có một màu vàng của chiếc lá thu đưa vèo. Tuy nhiên ẩn sâu trong cái tĩnh lặng này lại có một nỗ buồn man mác của tác giả. Một tâm thế an nhàn và thanh cao gắn bó với mùa thu quê hương, với tình yêu tha thiết. Mỗi nét thu là một sắc thu, tiếng thu gợi tả cái hồn thu đồng quê thân thiết, vần thơ: veo – teo – vèo – teo – bèo, phép đối tạo nên sự hài hòa cân xứng, điệu thơ nhẹ nhàng bâng khuâng… cho thấy một bút pháp nghệ thuật vô cùng điêu luyện, hồn nhiên – đúng là xuất khẩu thành chương. Thu điếu xứng đáng là một tác phẩm tả cảnh ngụ tình xuất sắc trong chương trình Ngữ văn lớp 11.

Bài mẫu Phân tích câu cá mùa thu 2

Một trong những thú vui tao nhã của con người đó là đi câu cá.  Những bậc hiền tài thời xưa cũng không ngoại lệ. Đôi khi họ đi câu cá để ngồi trên bờ suy nghĩ những chuyện giúp ích cho thiẻn hạ, chuyện naem cháu bốn biển, thế sự đảo điên. Các bậc cao nhán đi câu cá để hưởng thụ thiên nhiên, hòa mình vào không gian trời đất giúp mình cảm thấy tự tại. Tác giả Nguyễn Khuyến đã đi câu cá kiểu này, ông đã tận dụng mọi giác quan để cảm nhận hết mọi sự vật sự việc diễn ra xung quanh bản thân. Ông cảm nhận mùa thu một cách chân thực nhất, cũng như bao người khác khi đi câu ông cũng tập trung tinh thần, chờ đợi kết quả. Cuối cùbg có lẽ kết quả to lớn mà ông dành được chính là tác phẩm “ Thu điếu”. Một trong những tác phẩm kiệt tác của nước nhà.

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt.
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”

Hình ảnh mùa thu hiện ra một cách vô cùng giản dị và thân thương với không gian bình dị ở làng quê tác giả trong một chiếc ao nhỏ với một chiếc thuyền lặng lẽ trôi: 

“ Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”

Đằng sau những ngôn từ dân giã đó chính là một cái tôi trữ tình của tâc giả. Cảm giác của thi nhân hiện lên vừa sắc sảo mà hết sức tinh tế. Mùa thu đã vào chiều sâu, “ao thu lạnh lẽo” với mặt nước “trong veo” rất muốn nhìn, ao thu như là chiếc gương tròn của làng quê. Làng Bùi của nhà thơ là đồng chiêm trũng rất nhiều ao, ao nhỏ. Ao nhỏ thì thuyền câu cũng nhỏ theo “bé tẻo teo”, vần eo là thử vận hiểm hóc, vậy mà câu thơ trôi chảy tự nhiên như không, như không có chút gì là kĩ xảo cả. Thuyền câu đã hiện ra đấy mà người câu đâu chẳng thấy. Cũng chưa thấy cần thấy nhợ gì cả. Người đi câu còn mải mê với trời nước của mùa thu:

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng, trước gió khẽ đưa vèo

Ao thu chẳng còn mang vẻ tĩnh lặng như lúc ban đầu nữa ngược lại đã bắt đầu nổi những cơn sóng nhỏ với hai thanh trắc ở đầu câu (sóng biếc) và hai thanh trắc ở cuối câu (gợn tí). Sóng nhỏ vốn lẽ bởi vì ao nhỏ, lại ở trong một  hỗ khuất. Nét đặc biệt của mùa thu thì phải kể đến từng cơn gió nhẹ, từng ngọn gió heo may thổi qua một cách nhẹ nhàng. Con sóng được tác giả miêu tả với màu sắc vô cùng mới mẻ và đặc biệt “ sóng biếc”  Cho dù những chi tiết nhỏ nhất tác giả cũng đặt hết tâm huyết của mình vào tạo ra một sự tinh tế sâc sảo đến lạ thường. Hai câu thực đối rất chỉnh “sóng biếc” đối với “lá vàng”, đều là màu sắc đặc trưng của mùa thu. “Hơi gợn tí” đối với “khẽ đưa vèo”, vận động của chiều dọc tương xứng với vận động của chiều ngang thật tài tình.
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.

Nhà thơ đã thả hồn theo chiếc lá vàng “khẽ đưa vèo” trên mặt ao trong veo. Cái màu vàng của mùa thu mà bao nhiêu thi nhân đã ngợi ca:

Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô
(Lưu Trọng Lư)
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông.
(Bích Khê)

Dưới cặp mắt nghệ thuật của nhà thơ Xuân Diệu thì chiếc lá vàng trong thơ Nguyễn Khuyến “Cái thú vị của bài Thu Điếu ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi…”. Lời bình của Xuân Diệu thật là tâm đắc.

Nhà thơ còn mở rộng không gian lên cao giúp cho bức tranh của Thu điếu thêm phần rộng lớn, bao quát , thêm đường nét và thêm những đường sắc mới.

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo” 

Một màu xanh vô cùng nhẹ nhàng nhưng vô cùng đẹp đẽ mng lại cho chúng ta một cảm giác thoải mái dễ chịu. Trong màu “xanh ngắt” có cái thăm thẳm của chiều cao. Mây không trôi mà “lơ lửng” những áng mây trắng “lơ lửng” trên bầu trời “xanh ngắt” thật là thanh bình. Xa xa gần gần rồi tác giả bắt đầu quay lại với hình ảnh thôn quê mộc mạc. “Ngõ trúc quanh co”, đường làng quanh co thân thuộc với bóng tre trùm mát rượi. Những hình ảnh đã từng xuất hiện rất nhiều trong các tác phẩm văn học nghệ thuật. Nhưng mỗi tác giả đều có cách làm cho hình ảnh mình miêu tả trở nên nổi bật và Nguyễn Khuyến cũng không ngoại lệ. Nguyễn Khuyến có lẽ rất thiach hình ảnh của loài tre trúc ấy “Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu” (Thu vịnh), “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”. Ông đã nhắc đến nó trong nhiều tác phẩm nghệ thuật chắc có lẽ là vì khí chất hiên ngang không chịu khuất phục của nó. “Trúc dầu cháy đốt ngay vẫn thẳng”. Trên con đường làng quê quanh co uốn lượn lại điểm xuyết những rặng trúc thẳng tắp hình ảnh trái ngược nhưng lại góp phần cho chúg ta cảm nhận đượ hết nét gần gũi của làng quê Việt Nam. Trời lạnh, đường quê vắng vẻ, “khách váng teo”. Bức tranh thu đượm buồn. Các thi sĩ thích miêu tả cảnh thu trong tĩnh lặng, đẹp, nhưng buồn. Sau Nguyễn Khuyến, nhà thơ lãng mạn Xuân Diệu cũng viết:

Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò
(Đây mùa thu tới)

Bài thơ kết thúc với hình ảnh của người đi câu như một nét tự họa:

Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Nhà thơ thu mình lại “tựa gối ôm cần”, dường như để tương xứng với khung ao nhỏ, với chiếc thuyền “bé tẻo teo”.  Nhà thơ đang đắm chìm vào sự suy tư quên hết đi mọi thứ tạp niệm thì bỗng nhiên một tiếng cử động nhỏ đã khiến tác giả sực nhớ mình đang đi câu cá.

 Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Ba chữ “đ” (đâu, đớp, dộng) miêu tả một chút xao động trong làn ao và rất nhiều xao động trong lòng thật là tài tình khiến cho người khác phải ngã mũ thán phục. Có ý kiến cho rằng cử chỉ đi câu của Nguyễn Khuyến giống với Khương Tử Nha và nhà bình luận đó hết lời ngợi ca cả hai ông. Không! Nguyễn Khuyến đâu có còn chờ thời. Nhà thờ chỉ muốn hòa mình vào thiên cảm nhận được hết không khí ở chính nơi thôn quê mình đang sinh sống. Toàn bộ hình tượng thơ “Thu điếu” đã sửa soạn cho thái độ này. Khung cảnh hẹp, làn ao nhỏ, chiếc thuyền “bé tẻo teo”. Nhà thơ thu mình lại “tựa gối ôm cần” hòa điệu với thiên nhiên, tan hòa với non nước. Thế thì làm sao thái độ đi câu của Nguyễn Khuyên lại giống với thái độ đi câu của Khương Tử Nha được? Còn đồng tình với ai đó là chuyện riêng. Tôi đồng tình với Nguvễn Khuyến. 

Tất cả các tác phẩm trong chùm thơ của ông đều có thể nói là vô cùng tuyệt vời, tùy nhiên nếu cho tôi chọn một tác phẩm tâm đắc nhất đó chính là “ Thu điếu”. Tác ohaarm này có thể coi là kiệt tác văn học trong nền văn học cổ điển nước nhà. Bài thơ như vẽ ra một bức tranh mùa thu ở trước ta một cách vô cùng chân thật. Nhạc điệu cũng độc đáo. vần gieo hiểm hóc mà tự nhiên, hồn nhiên. Theo Xuân Diệu, cả bài thơ không còn lép chữ nào. Quả thật Nguyễn Khuyến là một thi sĩ cao tay. Cái tình của nhà thơ cũng luôn đi đôi với chữ tài. Một tình yêu to lớn đối với quê hương đất nước con người Việt Nam từng câu từng chữ mà tác giả nhắc đến đều tạo ra những xúc cảm trong tâm hồn Việt Nam.

Có lẽ hiện nay nhiều bạn trẻ đã mất đi tình yêu đối với bộ môn Ngữ Văn, và chỉ học chống đối để cho qua môn. Nhưng nói gì đi chăng nữa đây cũng là một môn thi bắt buộc cỷa cuọic thi THPTQG. Vì vậy mình mong muốn tất cả các các bạn đến với môn bằng một tình yêu thương, một tình thần tự nguyện. Có như vậy chúng ta mới có thể hiểu hết được những điều mà các tác giả đã gửi gắm trong từng cáu chữ. Học Văn để làm người, học Văn để biết cách đối nhán xử thế chứ không phải học văn để chống đối để qua môn. Bên trên mình đã phân tích bài thơ “ Câu cá mùa thu” hay còn gọi là “ Thu điếu” một cách chi tiết nhất hi vọng sẽ giúp các bạn trong quá trình học tập tiếp cận với tác phẩm một cách dễ dàng hơn, có thể nắm bài kĩ và nhanh hơn. Chúc các bạn học tốt thêm yêu thương và dành thời gian cho môn Ngữ Văn nhiều hơn nữa và mong rằng bài viết này sẽ giúp ích cho các bạn.

Bài viết liên quan :

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *