Thơ Lý Bạch – những kiệt tác đi cùng năm tháng

Lý Bạch sinh năm (701 – 762), tự là Thái Bạch, hiệu là Thanh Liên cư sĩ. Ông sinh ra ở làng Thanh Liên, huyện Chương Minh nay gọi là huyện Miện Dương, tỉnh Tứ Xuyên. Quê gốc của ông là ở Cam Túc, huyện Thiên Thủy.

Lý Bạch xuất thân trong một gia đình thương nhân giàu có. Ngay từ lúc nhỏ ông đã được học đạo, học múa kiếm, học múa… Lớn lên ông thích ngao du sơn thủy. 25 tuổi ông chính thức chống kiếm đi viễn du đến nhiều nơi, vừa ngắm cảnh, ngắm trăng, ngâm thơ, uống rượu.

Xét về đời thơ, Lý Bạch là một trong những nhà thơ nổi bật nhất của nền văn học Trung Quốc thời bấy giờ. Khác với các ngòi bút đương thời, thơ Lý Bạch thích viễn vông, phóng túng, thích gió thích trăng, yêu cảnh đẹp chứ ít động chạm đến thế sự nhân tình.

tho-ly-bach-nhung-kiet-tac-di-cung-nam-thang-1

Lý Bạch để lạ cho đời một kho thơ văn đồ sộ hơn 2000 bài. Nếu bạn là người yêu hồn thơ phóng túng của ông, đừng bỏ qua những bài thơ Lý Bạch hay nhất được hocde.vn sưu tầm dành tặng dưới đây.

  1. Nguyệt hạ độc chước kỳ 1

Uống rượu một mình

Hoa gian nhất hồ tửu,

Độc chước vô tương thân.

Cử bôi yêu minh nguyệt,

Đối ảnh thành tam nhân.

Nguyệt ký bất giải ẩm,

Ảnh đồ tùy ngã thân.

Tạm bạn nguyệt tương ảnh,

Hành lạc tu cập xuân.

Ngã ca nguyệt bồi hồi,

Ngã vũ ảnh linh loạn.

Tỉnh thì đồng giao hoan,

Tuý hậu các phân tán.

Vĩnh kết vô tình du,

Tương kỳ mạc Vân Hán.

Dịch nghĩa

Trong đám hoa với một bình rượu

Uống một mình không có ai làm bạn

Nâng ly mời với trăng sáng

Cùng với bóng nữa là thành ba người

Trăng đã không biết uống rượu

Bóng chỉ biết đi theo mình

Tạm làm bạn với trăng và bóng

Hưởng niềm vui cho kịp với ngày xuân

Ta hát trăng có vẻ bồi hồi không muốn đi

Ta múa bóng có vẻ quay cuồng mê loạn

Lúc tỉnh cùng nhau vui đùa

Sau khi say thì phân tán mỗi một nơi

Vĩnh viễn kết chặt mối giao du vô tình này

Cùng nhau ước hẹn lên trên Thiên hà gặp lại

Lý Bạch là người ít quan tâm đến thế sự nhân tình, ông thích cuộc sống phóng túng nay đây mai đó. Vì thế, thơ Lý Bạch cũng khác với các hồn thơ đương thơi. Nếu bạn từng đọc về thơ của ông sẽ thấy bộ 3 hình ảnh: trăng, rượu, thơ xuất hiện rất nhiều. Đó được xem là người bạn tri kỷ của ông. Bài thơ Nguyệt hạ độc chước kỳ 1 là một trong số đó. Trăng, thơ, rượu đã giúp hồn thơ Lý Bạch cất cánh bay lên.

  1. Bả tửu vấn nguyệt

Rượu và trăng

Thanh thiên hữu nguyệt lai kỷ thì,

Ngã kim đình bôi nhất vấn chi!

Nhân phan minh nguyệt bất khả đắc,

Nguyệt hành khước dữ nhân tương tuỳ.

Kiểu như phi kính lâm đan khuyết,

Lục yên diệt tận thanh huy phát

Đãn kiến tiêu tòng hải thượng lai,

Ninh tri hiểu hướng vân gian một.

Bạch thố đảo dược thu phục xuân,

Thường nga cô thê dữ thuỳ lân.

Kim nhân bất kiến cổ thì nguyệt,

Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân.

Cổ nhân kim nhân nhược lưu thuỷ,

Cộng khan minh nguyệt giai như thử.

Duy nguyện đương ca đối tửu thì,

Nguyệt quang thường chiếu kim tôn lý.

Dịch nghĩa

Trời xanh có vầng trăng đã bao lâu rồi?

Nay ta ngừng chén hỏi trăng đây!

Người thường không thể vin với được vầng trăng sáng,

Trăng đi đâu thì vẫn cứ theo người.

Ánh sáng trắng như gương vút tận cửa son,

Khói biếc tan đi hết, để lộ vẻ trong trẻo lan tỏa ra.

Chỉ thấy ban đêm trăng từ biển tới,

Nào hay sớm lại tan biến giữa trời mây.

Thỏ trắng giã thuốc mãi thu rồi lại xuân,

Thường Nga lẻ loi cùng ai bầu bạn?

Người ngày nay không thấy bóng trăng xưa.

Trăng nay thì đã từng soi người xưa.

Người xưa nay tựa như giòng nước chảy,

Cùng ngắm vầng trăng sáng như vậy đó.

Chỉ mong trong lúc ca say trước cuộc rượu,

Ánh trăng cứ mãi sáng soi vào chén vàng.

tho-ly-bach-nhung-kiet-tac-di-cung-nam-thang-2

  1. Quân hành

Lưu mã tân khoa bạch ngọc an,

Chiến bãi sa trường nguyệt sắc hàn.

Thành đầu thiết cổ thanh do chấn,

Hạp lý kim đao huyết vị can.

Dịch nghĩa

Ngựa hoa lưu mới cưỡi, yên cẩn ngọc trắng,

Sa trường sau cuộc chiến mặt trăng sắc lạnh lẽo.

Ở đầu thành tiếng trống sắt như còn vang động,

Đao mạ vàng trong bao còn chưa khô máu quân thù.

  1. Thục đạo nan

Nguy hồ cao tai

Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên

Tàm Tùng cập Ngư Phù

Khai quốc hà mang nhiên

Nhĩ lai tứ vạn bát thiên tuế

Bất dữ Tần tái thông nhân yên

Tây đương Thái Bạch hữu điểu đạo

Khả dĩ hoành tuyệt Nga My điên

Địa băng sơn tồi tráng sĩ tử

Nhiên hậu thiên thê thạch sạn phương câu liên

Thượng hữu lục long hồi nhật chi cao tiêu

Hạ hữu xung ba nghịch chiết chi hồi xuyên

Hoàng hạc chi phi thượng bất đắc quá

Viên nhứu dục độ sầu phan viên

Thanh Nê hà bàn bàn

Bách bộ cửu chiết oanh nham loan

Môn Sâm lịch Tỉnh ngưỡng hiếp tức

Dĩ thủ phủ ưng toạ trường thán

Vấn quân tây du hà thời hoàn

Uý đồ sàm nham bất khả phan

Đãn kiến bi điểu hào cổ mộc

Hùng phi tòng thư nhiễu lâm gian

Hữu văn tử quy đề dạ nguyệt, sầu không san.

Thục đạo chi nan nan ư thướng thanh thiên

Sử nhân thính thử điêu chu nhan

Liên phong khứ thiên bất doanh xích

Khô tùng đảo quái ỷ tuyệt bích

Phi suyền bộc lưu tranh huyên hôi

Phanh nhai chuyển thạch vạn hác lôi

Kỳ hiểm dã nhược thử

Ta nhĩ viễn đạo chi nhân

Hồ vi hồ lai tai

Kiếm Các tranh vanh nhi thôi ngôi

Nhất phu đang quan

Vạn phu mạc khai

Sở thủ hoặc phi thân

Hoá vi lang dữ sài

Triều tị mãnh hổ

Tịch tị trường xà

Ma nha doãn huyết

Sát nhân như ma

Cẩm thành tuy vân lạc

Bất như tảo hoàn gia

Thục đạo chi nan nan ư hướng thanh thiên

Trắc thân tây vọng trường tư ta

Dịch nghĩa

Ôi,

Nguy hiểm thay, cao thay!

Đường Thục khó, khó hơn lên trời xanh.

Các vua Tàm Tùng và Ngư Phù

Ở chốn xa xôi biết bao!

Từ đó đến nay, đã bốn vạn tám nghìn năm,

Mới thông suốt với chỗ có khói người ở ải Tần.

Phía tây là núi Thái Bạch có đường chim bay,

Có thể vắt ngang đến tận đỉnh núi Nga Mi.

Đất lở, núi sập, tráng sĩ chết,

Rồi mới có thang trời, đường đá móc nối liền nhau.

Phía trên có ngọn cao sáu rồng lượn quanh mặt trời.

Phía dưới có dòng sông uốn khúc sóng xô rẽ ngược.

Hạc vàng còn không bay qua được;

Vượn khỉ muốn vượt qua, cũng buồn khi vin tới, leo trèo.

Rặng núi Thanh Nê khuất khúc biết bao!

Cứ trăm bước lại có chín khúc quặt vòng quanh núi non hiểm trở.

Đứng trên cao, tưởng chứng như mó được sao Sâm, lướt qua sao Tỉnh ngẩng trông nín thở,

Đưa tay vỗ bụng, ngồi than thở hoài.

Hỏi bạn đi chơi phía Tây, bao giờ trở lại?

Đường đi cheo leo, nguy hiểm, không với tới được.

Chỉ nghe thấy tiếng chim kêu đau thương trong hàng cây cổ thụ,

Con trống bay theo con mái, lượn quanh trong rừng.

Lại nghe thấy tiếng chim tứ quí kêu dưới bóng trăng đêm, buồn trong núi vắng.

Đường Thục khó, khó hơn lên trời xanh.

Khiến người ta nghe nói đến cảnh đó, phải héo hắt vẻ mặt trẻ trung.

Các ngọn núi liền nhau, cách trời không đầy một thước.

Cây thông khô vắt vẻo tựa vào vách đá cao ngất.

Nước bay, thác chảy đua tiếng ào ào.

Đập vào sườn núi, rung động đá, muôn khe suối vang ầm như sấm.

Đường Thục hiểm trở là như thế!

Thương thay cho các bạn, những người đi đường xa,

Tại sao đến nơi đây?

Miền Kiếm Các cheo leo, chót vót!

Chỉ một người canh giữ ải,

Đến muôn người cũng không mở nổi.

Những kẻ giữ ải có thể không phải là người thân,

Lại biến đổi thành ra loài sài lang.

Còn những người đi đường thì ban sáng phải lánh cọp dữ,

Buổi tối phải tránh rắn dài;

Bọn chúng mài nanh, hút máu,

Giết hại người nhiều như cây gai.

Thành Cẩm Quan tuy rằng có vui,

Nhưng sao bằng sớm trở về nhà.

Đường Thục khó, khó hơn lên trời xanh.

Nghiêng mình trông sang phía tây, than thở hoài.

tho-ly-bach-nhung-kiet-tac-di-cung-nam-thang-3

  1. Thanh bình điệu kỳ 1

Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung,

Xuân phong phất hạm, lộ hoa nùng.

Nhược phi Quần Ngọc sơn đầu kiến,

Hội hướng Dao Đài nguyệt hạ phùng.

Dịch nghĩa

Nhìn mây nhớ đến xiêm áo, thấy hoa nhớ đến dung nhan,

Gió xuân thổi nhẹ qua hiên, sương hoa nồng nàn.

Nếu không phải người ở mé núi Quần Ngọc,

Thì cũng là thấy ở dưới trăng chốn Dao Đài.

Lý Bạch vốn rất mê đắm vẻ đẹp của Dương Quý Phi. Nhan sắc lộng lẫy của người phụ nữ này khiến hoàng đế nhà Đường là Đường Minh Hoàng Lý Long Cơ mê đắm và nó cũng trở thành đề tài trong thơ Lý Bạch. Ông đã dành khá nhiều bài viết để ca ngợi nhan sắc của Dương Quý Phi mà Thanh bình điệu kỳ 1 là điển hình

  1. Đáp Hồ Châu Ca Diệp tư mã vấn Bạch thị hà nhân

Thanh Liên cư sĩ Trích Tiên nhân,

Tửu tứ tàng danh tam thập xuân.

Hồ Châu tư mã hà tu vấn ?

Kim Túc Như Lai thị hậu thân.

Dịch nghĩa

Cư sĩ làng Thanh Liên người vốn là tiên bị đày

Uống rượu thoải mái mai danh đã ba mươi năm

Tư mã Hồ Châu hỏi tới làm gì ?

Kiếp sau sẽ là Kim Túc Như Lai đấy.

  1. Bắc phong hành

Chúc long thê hàn môn,

Quang diệu do đán khai.

Nhật nguyệt chiếu chi hà bất cập thử,

Duy hữu bắc phong hào nộ thiên thượng lai.

Yên sơn tuyết hoa đại như tịch,

Phiến phiến xuy lạc Hiên Viên đài.

U Châu tư phụ thập nhị nguyệt,

Đình ca bãi tiếu song nga tồi.

Ỷ môn vọng hành nhân,

Niệm quân Trường Thành khổ hàn lương khả ai.

Biệt thời đề kiếm cứu biên khứ,

Di thử hổ văn kim bính cách xoa.

Trung hữu nhất song bạch vũ tiễn,

Tri thù kết võng sinh trần ai.

Tiễn không tại,

Nhân kim chiến tử bất phục hồi.

Bất nhẫn kiến thử vật,

Phần chi dĩ thành khôi.

Hoàng Hà phủng thổ thượng khả tái,

Bắc phong vũ tuyết hận nan tài.

Dịch nghĩa

Đuốc rồng mà đến nhà nghèo

Ánh nắng buổi mai cũng chiếu sáng

Trời trăng soi rọi sao đến chốn này được

Chỉ có gió bấc từ trời cao giận dữ gầm thét

Núi Yên Chi hoa tuyết lớn như những chiếc chiếu (cuốn hết mọi thứ)

Từng mãng từng mãng thổi sập đài Hiên Viên

Tháng 12 người thiếu phụ đất U Châu tư lự

Không còn ca hát cười đùa, đôi mày ngài tiều tuỵ

Tựa cửa trông người đi

Nhớ chàng ở Trường Thành khổ lạnh thật đáng thương

Hồi đó chia tay chàng mang gươm đi cứu nguy biên ải

Để lại túi đựng tên (chĩa ba) vằn da hổ

Trong đó thường có một cặp tên đuôi buộc lông chim trắng

Bây giờ nhện giăng đầy bụi bặm

Cặp tên không còn nữa

Và chinh phu đã chết vì chiến đấu, không trở về

Nàng không cam lòng nhìn những vật ấy

Nên muốn đốt cháy thành tro

Sông Hoàng Hà đất đào đem đi chỗ khác có thể lấp được

Còn gió bấc tuyết mưa đầy hờn oán kia làm sao dập đứt nổi

tho-ly-bach-nhung-kiet-tac-di-cung-nam-thang-4

  1. Tĩnh dạ tư

Ngắm trăng nhớ cố hương

Sàng tiền minh nguyệt quang

Nghi thị địa thượng sương

Cử đầu vọng minh nguyệt

Đê đầu tư cố hương.

Dịch nghĩa: 

Đầu giường ánh trăng chiếu rọi

Ngỡ là sương trên mặt đất

Ngẩng đầu ngắm trăng sáng

Cúi đầu nhớ quê cũ.

Dịch thơ

Ánh trăng chiếu sáng đầu giường

Ngỡ là mặt đất phủ sương móc dày

Ngẩng đầu ngắm ánh trăng đầy

Cúi đầu bỗng nhớ những ngày cố hương

Bài thơ Tĩnh dạ tư rất ngắn gọn chỉ 4 dòng và 20 chữ. Cảm hứng chủ đạo trong bài thơ là nỗi buồn, nỗi nhớ da diết cố hương da diết của Lý Bạch. Không gian bốn bề tĩnh lãng, không có một tiếng động, không có tiếng gió thổi, không có tiếng côn trùng kêu…, chỉ có ánh trăng sáng rọi đầu giường. Nhà thơ thật tinh tế khi mượn hình ảnh ánh trong trong cái không gian tĩnh mịch như thế để nói hộ lòng người, nỗi nhớ quê nhà da diết, khôn nguôi.

tho-ly-bach-nhung-kiet-tac-di-cung-nam-thang-5

  1. Bạch đầu ngâm

Cẩm thuỷ đông bắc lưu,

Ba đãng song uyên ương.

Hùng sào Hán cung thụ,

Thư lộng Tần thảo phương.

Ninh đồng vạn tử toái ỷ dực,

Bất nhẫn vân gian lưỡng phân trương.

Thử thì A Kiều chính kiều đố,

Độc toạ Trường Môn sầu nhật mộ.

Đãn nguyện quân ân cố thiếp thâm,

Khởi tích hoàng kim mãi từ phú.

Tương Như tác phú đắc hoàng kim,

Trượng phu hiếu tân đa dị tâm.

Nhất triêu tương sính Mậu Lăng nữ,

Văn Quân nhân tặng “Bạch đầu ngâm”.

Đông lưu bất tác tây quy thuỷ,

Lạc hoa từ điều tu cố lâm.

Thố ty cố vô tình,

Tuỳ phong nhiệm khuynh đảo.

Thuỳ sử nữ la chi,

Nhi lai cưỡng oanh bão.

Lưỡng thảo do nhất tâm,

Nhân tâm bất như thảo.

Mạc quyển long tu tịch,

Tòng tha sinh võng ty.

Thả lưu hổ phách chẩm,

Hoặc hữu mộng lai thì.

Phúc thuỷ tái thu khởi mãn bôi,

Khí thiếp dĩ khứ nan trùng hồi.

Cổ lai đắc ý bất tương phụ,

Chỉ kim duy kiến Thanh Lăng đài.

Dịch nghĩa

Dòng nước như gấm trôi về đông bắc

Trên sóng chấp chới đôi uyên ương

Con trống đậu trên cây ở Hán cung

Con mái đùa trong cỏ thơm đất Tần

Thà cùng nhau chết vạn lần, nát lông cánh

Chứ không chịu chia lìa nhau trong mây

Khi A Kiều trong cơn ghen thủa ấy

Ngồi một mình buồn ngày tàn ở Trường Môn

Chỉ mong ơn vua thương tới nàng hơn

Há tiếc hoàng kim mua từ phú

Tương Như làm phú được hoàng kim

Trượng phu ưa mới sinh lòng khác

Một sớm muốn cưới cô gái Mậu Lăng

Văn Quân nhân tặng “Bạch đầu ngâm”

Nước đã về đông chẳng quay lại hướng tây

Hoa lìa cành thẹn với rừng cũ

Cỏ thố ty vốn vô tình

Theo gió mà ngả nghiêng

Ai xui khiến dây cỏ nữ la

Tìm tới quấn quýt không rời

Hai loài cỏ, chung một tấm lòng

Lòng người sao chẳng như cỏ ấy

Đừng cuốn chiếc chiếu long tu (râu rồng)

Mặc cho tơ nhện chăng đầy

Hãy để lại chiếc gối hổ phách

Biết đâu sẽ có lúc về trong giấc mơ

Nước đổ đi rồi, há thu lại đầy chén sao

Chàng khinh bạc bỏ thiếp đi, khó mà quay lại

Xưa nay khi đắc ý, không ruồng rẫy nhau

Giờ chỉ còn thấy đài Thanh Lăng mà thôi

  1. Bi ca hành

Bi lai hồ

Bi lai hồ

Chủ nhân hữu tửu thả mạc châm

Thính ngã nhất khúc bi lai ngâm

Bi lai bất ngâm hoàn bất tiếu

Thiên hạ vô nhân tri ngã tâm

Quân hữu sổ đấu tửu

Ngã hữu tam xích cầm

Cầm minh tửu lạc lưỡng tương đắc

Nhất bôi bất thí thiên quân kim

Bi lai hồ

Bi lai hồ

Thiên tuy trường

Địa tuy cửu

Kim ngọc mãn đường ưng bất thủ

Phú quý bách niên năng kỹ hà

Tử niên nhất độ nhân giai hữu

Cô viên tọa đề phần thượng nguyệt

Thả tu nhất tận bôi trung tửu

Bi lai hồ

Bi lai hồ

Phượng hoàng bất chí hà vô đồ

Vi Tử khứ chi Kỳ Tử nô

Hán Đế bất ức Lý Tướng Quân

Sở Vương phóng khước Khuất Đại Phu

Bi lai hồ

Bi lai hồ

Tần gia Lý Tư tảo truy hối

Hư danh bát hướng thân chi ngoại

Phạm tử hà tằng ái ngũ hồ

Danh thành công toại thân tự thoái

Kiếm thị nhất phu dụng

Thư năng tri tánh danh

Huệ thi bất khẳng can vạn thừa

Bốc thức vị tâm cùng nhất kinh

Hoàng tu hắc đầu thủ phương bá

Mạc man bạch thủ vi nho sinh.

Dịch nghĩa

Buồn đến rồi

Buồn đến rồi

Chủ nhân sẵn rượu rót tràn cho

Hãy nghe tôi hát khúc buồn lo

Buồn mà không hát cười không được

Thiên hạ có ai người hiểu cho

Tôi có đàn ba xích

Bạn có rượu trăm chung

Đàn kêu rượu uống hợp cùng với nhau

Một chén có đáng vào đâu

Làm sao sứt mẻ trăm cân vàng ròng

Buồn đến rồi

Buồn đến rồi

Trời tuy trường

Đất tuy cửu

Vàng ngọc đầy nhà không thể giữ

Giàu có trăm năm rồi được gì

Đời người một lần ai cũng tử

Dưới trăng vượn hú ôi sầu bi

Uống đi cho hết rượu trong ly

Buồn đến rồi

Buồn đến rồi

Phượng hoàng bất chí biết đường mô

Vi Tử đến rồi Kỳ Tử nô

Hán Đế nhớ gì Lý Lăng cũ

Sở Vương đày ải Khuất Nguyên xưa

Buồn đến rồi

Buồn đến rồi

Lý Tư nhớ lại hối đã đành

Không để tấm thân ngoài hư danh

Ngũ hồ nương mây thuyền Phạm Lãi

Thân thoái khi công toại danh thành

Kiếm, lợi cho một người

Sách, để lại họ tên

Ban ơn rồi lại bỏ quên

Đoán người khi đã ở bên nhau thường

Râu vàng cùng với đầu đen

Tiện nghi phương bá nhanh chân chiếm liền

Nho sinh này hỡi nho sinh

Đừng lừa tóc bạc mà mang tội trời.

Thơ Lý Bạch được viết theo lối cổ phong gần gũi, giản dị nên được thu hút được sự quan tâm của nhiều tâm hồn yêu thơ văn. Kho tàng thơ văn đồ sộ của ông thực sự khiến người đời kinh ngạc, không hết lời ca ngợi. Mặc dù không trọn vẹn nhưng hầu hết các thi phẩm hay của ông đều được gìn giữ cho đến bây giờ. Hy vọng những bài thơ hay của Lý Bạch mà hocde.vn sưu tầm nói trên sẽ giúp bạn hiểu hơn về hồn thơ này.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *