Hồ Xuân Hương là một trong số ít ỏi nhà thơ nữ nổi tiếng trong lịch sử văn học dân tộc. Trên tao đàn văn học Việt, ngòi bút Hồ Xuân Hương rất quen thuộc với đông đảo bạn đọc không kém cạnh bất cứ nhà thơ nào. Đáng tiếc là tài liệu ghi chép về cuộc đời nữ sĩ này quá ít nên tiểu sử của bà vẫn còn gây nhiều tranh cãi trên các diễn đàn văn nghệ.
Ngược lại, đời thơ Hồ Xuân Hương lại khá dày. Bà được xem là một hiện tương đặc biệt của nền văn học nước nhà trên cả 2 phương diện sáng tác: nội dung và nghệ thuật. Bà để lại cho đời nhiều áng thơ tuyệt bút vừa chân thực vừa châm biếm sâu cay xã hội đương thời, cảm thông sâu sắc với số phận ngang trái của người phụ nữ. Dưới đây là tuyển tập những bài thơ nổi tiếng của nữ sĩ Hồ Xuân Hương hocde.vn sưu tầm lại, hãy đọc để hiểu hơn cái đặc biệt trong con người và trong thơ của nữ sĩ.
Cảnh khuya
Canh khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan mấy nước non
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy chòm
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình son trẻ tí con con
Cảnh thu
Thánh thót tầu tiêu mấy giọt mưa,
Bút thần khôn vẽ cảnh tiếu sơ,
Xanh om cổ thụ tròn xoe tán,
Trắng xoá tràng giang phẳng lặng tờ.
Bầu dốc giang sơn say chấp rượu,
Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ
Cho hay cảnh cũng ưa người nhỉ,
Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ.
Bao trùm lên bài thơ là bức tranh cảnh thu tuyệt đẹp, tiêu sơ, ngoạn mục. Những giọt mưa không ngừng rơi, từng giọt, từng giọt đổ trên tàu lá. Nếu như hai câu đầu của bài thơ bức tranh có tông màu khác, có chút gì đó đượm buồn thì hai câu tiếp theo của bài thơ bức tranh thu bắt đầu chuyển màu. Cái màu xanh tươi tốt đầy sức sống của những cây cổ thu tán tròn mang lại cảm giác mát mẻ, nhẹ nhõm thư thái trong tâm hồn. Hình ảnh con sông phẳng lặng phản chiếu cả màu mây trắng xuống lòng sâu thật đẹp và yên ả.
Từ bức tranh tả cảnh, những câu thơ tiếp theo “Bầu dốc giang sơn…” tả tình. Thi nhân dù đã dốc hết bầu rượu nhưng trước cảnh đẹp vẫn muốn chấp rượu thưởng thức cảnh đẹp. Người say đâu chỉ vì rượu mà bởi cảnh đẹp của đất trời, của giang sơn.
Vịnh Dạy Con Trẻ
Buổi học xong rồi cảnh vắng teo,
Đứng lên nằm xuống lại nằm mèo.
Miệng thèm sờ rượu be hôi rích,
Giọng khát tìm chè lọ mốc meo.
Trầu một vài tuần nhai bỏm bẻm,
Thuốc năm ba điếu hút phì phèo.
Ai về nhắn nhủ cô bay biết,
Cũng chẳng phong lưu cũng chẳng nghèo.
Vịnh Hằng Nga
Hỡi chị Hằng Nga náu Quảng Hàn
Bốn mùa trăng gió mấy giang san
Áo tiên tuy nhuộm màu Vương Mẫu
Hương tục còn nồng lửa Hậu Lang
Mắt phượng nhớ say mùi ngọc thố
Cung Nghê sao thẹn khúc cầm loan
Nẻo không duyên nợ người cùng thế
Xin chớ dầm mình nước hợp hoan
Vịnh Hoa Cúc
Chấp cả hàn phong xiết cả sương,
Trước rào xum họp tấm bao vàng.
Yêu vì vãn tuyết hương càng lạ,
Lẫn với phàm hoa sắc cũng thường.
Đào lệnh nòi xưa nghe chửa hết,
Tây Thi giống trước hãy còn ương.
Yêu hoa nên hoạ người say tỉnh,
Rượu chén hoàng hoa ngẫu hứng thương.
Vịnh Nằm Ngủ
Mùa hè hây hẩy gió nồm đông
Tiên nữ nằm chơi quá giấc nồng
Lược trúc chải cài trên mái tóc
Yếm đào trễ xuống dưới nương long
Ðôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm
Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt
Ði thì cũng dở ở sao xong
Vịnh Đời Người
Trăm năm ba vạn sáu ngàn ngày
Dẫu có ngàn vàng khó đổi thay
Trong núi ngàn năm cây vẫn có
Dưới trần trăm tuổi dễ không ai
Nghĩ đường danh lợi lòng thêm chán
Thấy kẻ gian ngoan bụng lại đầy
Đắng xót ghê thay mùi tục lụy
Bực mình theo Cuội tới cung mây
Vịnh cái quạt
Một lỗ xâu xâu mới cũng vừa
Duyên em dính dán tự ngàn xưa
Chành ra ba góc da còn thiếu
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa
Mát mặt anh hùng khi tắt gió
Che đầu quân tử lúc sa mưa
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng:
“Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?”
Nếu bạn từng đọc thơ Hồ Xuân Hương sẽ hiểu thơ của bà luôn ẩn chứa nhiều tầng ý nghĩa sâu xa. Bài thơ Vịnh cái quạt bề mặt nổi là miêu tả cái giạt giấy gấp nhưng đằng sau đó là hình ảnh người phụ nữ. Có thể người đọc còn nhiều cách hiểu khác nữa nhưng khó có thể nói cách hiểu nào là chính xác với dụng ý của tác giả.
Chùa hương tích
Bày đặt vì ai khéo khéo vòm
Nứt ra một lỗ hổng hòm hom
Người quen cửa Phật chen chân xọc
Kẻ lạ bầu Tiên mỏi mắt dòm
Giọt nước hữu tình rơi thánh thót
Con thuyền vô trạo cúi lom khom
Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại
Rõ khéo trời già đến dở dom
Bánh trôi nước
Thân em vừa trắng, lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Lớn nhỏ mặc dù tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Bài thơ không còn xa lạ gì với bạn đọc yêu thơ Hồ Xuân Hương. Thật thi vị và tài tình khi nữ sĩ mượn hình ảnh chiếc bánh trôi nước để qua đó nói lên thân phận bấp bênh, trôi nổi, nhiều trắc trở của người phụ nữ, của chính mình. Đó là sự ví von tài tình đầy ẩn ý trong thơ Hồ Xuân Hương.
Thơ tự tình
Tiếng gà xao xác gáy trên vòm
Oán hận trông ra khắp mọi chòm
Mõ thảm không khua mà cũng cốc
Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om
Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ
Sau hận vì duyên để mõm mòm
Tài tử văn nhân ai đó tá
Thân này đâu đã chịu già tom.
Bài thơ để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc khác nhau. Đó là sự cảm thương sâu sắc đối với số phận của người phụ nữ. Nhà thơ đồng cảm nhưng cũng vô cùng phẫn uất trước bao nghịch cảnh ngang trái của người phụ nữ. Xã hội đã khiến ho phải chịu nhiều đau đớn, thiệt thòi về tình duyên. “Thân này đâu đã chịu già tom” thể hiện khát vọng được sống, được yêu một cách nồng nhiệt, chân thành, không chấp nhận thực tại.
Canh Khuya (Tự Tình II)
Canh khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan mấy nước non
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy chòm
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con
Hơi khán đài
Êm ái chiều xuân tới Khán Đài
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai
Bốn mùa triêu mộ, chuông gầm sóng
Một vũng tang thương, nước lộn trời
Bể ái ngàn trùng khôn tát cạn
Nguồn ân trăm trượng dễ khơi vơi
Nào là cực lạc là đâu tá?
Cực lạc là đây, chín rõ mười
Du cổ tự
Thầy tớ thong dong dạo cảnh chùa
Cầm thư lưng túi rượu lưng hồ
Cá khe lắng kệ đầu ngơ ngác
Chim núi nghe kinh cổ gật gù
Then cửa từ bi nêm chật cánh
Nén hương tế độ cắm đầy lò
Nhà sư ướm hỏi nhà sư tí
Phúc đức nhà ngươi được mấy bồ
Đánh Cờ
Chàng với thiếp đêm khuya trằn trọc,
Ðốt đèn lên đánh cuộc cờ người.
Hẹn rằng đấu trí mà chơi,
Cấm ngoại thuỷ không ai được biết.
Nào tướng sĩ dàn ra cho hết,
Ðể đôi ta quyết liệt một phen.
Quân thiếp trắng, quân chàng đen,
Hai quân ấy chơi nhau đà đã lửa.
Thoạt mới vào chàng liền nhảy ngựa,
Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên.
Hai xe hà, chàng gác hai bên,
Thiếp thấy bí, thiếp liền ghểnh sĩ.
Chàng lừa thiếp đương khi bất ý,
Ðem tốt đầu dú dí vô cung,
Thiếp đang mắc nước xe lồng,
Nước pháo đã nổ đùng ra chiếu.
Chàng bảo chịu, thiếp rằng chẳng chịu,
Thua thì thua quyết níu lấy con.
Khi vui nước nước non non,
Khi buồn lại giở bàn son quân ngà.
Ốc Nhồi
Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi
Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi
Quân tử có thương thì bóc yếm
Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi
Họa Nhân
Vài hàng chữ gấm chạnh niềm châu,
Nghĩ tưởng năm canh nguyệt hé lầu.
Lá nhuộm thức lam thêm vẻ thẹn,
Sương pha khói biếc rộn thêm sầu.
Thẩn thơ trước viện, nhà khoe gió,
Đồng vọng bên tai, địch thét đâu,
Ướm hỏi trăng già khe khắc bấy,
Trêu nhau chi những sợi cơ cầu.
Đánh Đu
Bốn cột khen ai khéo khéo trồng,
Người thì lên đánh kẻ ngồi trông,
Trai co gối hạc khom khom cật
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,
Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
Chơi xuân đã biết xuân chăng tá.
Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không!
Lấy Chồng Chung
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Năm chừng mười họa hay chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
Cố đấm ăn xôi xôi lại hỏng
Cầm bằng làm mướn mướn không công
Nỗi này ví biết dường này nhỉ
Thời trước thôi đành ở vậy xong
Bài thơ thể hiện sự căm phẫn của nhà thơ đối với số kiếp của người phụ nữ. Kiếp lấy chồng chung, kiếp làm lẽ cô đơn, bị coi thường. Nếu biết phải chịu cảnh: kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng, năm thì mười họa… thì ở vậy còn hơn. Đó là tiếng nói phản kháng lại những hũ tục của chế độ phong kiến, bảo vệ quyền lợi cho mình, cho người phụ nữ của Hồ Xuân Hương.
Hỏi Trăng
Một trái trăng thu chín mõm mòm,
Nảy vừng quế đỏ đỏ lòm lom!
Giữa in chiếc bích khuôn còn méo,
Ngoài khép đôi cung cánh vẫn khòm.
Ghét mặt kẻ trần đua xói móc,
Ngứa gan thằng Cuội đứng lom khom.
Hỡi người bẻ quế rằng ai đó,
Đó có Hằng Nga ghé mắt dòm.
Đưa Đò
Chú lái kia ơi, biết chú rồi,
Qua sông rồi lại đấm ngay bòi!
Chèo ghe vừa khỏi dòng sông ngược,
Đấm cọc ngay vào ngấn nước xuôi.
Mới biết lên bờ đà vỗ đít,
Nào khi giữa khúc đã co vòi.
Chuyến đò nên nghĩa sao không nhớ?
Sang nữa hay là một chuyến thôi?
Hang Cắc Cớ
Trời đất sinh ra đá một chòm
Nứt làm đôi mảnh hổng hòm hom
Kẽ hầm rêu mọc trơ toen hoẻn
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm
Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm
Con đường vô ngạn tối om om
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm
Cái Giếng
Ngõ ngay thăm thẳm tới nhà ông
Giếng tót thanh thơi rất lạ lùng
Cầu trắng phau phau hai ván ghép
Nước trong leo lẻo một dòng thông
Cỏ gà lún phún leo quanh mép
Cá diếc le te lội giữa dòng
Giếng ấy thanh tân ai đã biết
Đố ai dám thả nạ rồng rồng
Tát Nước
Đang cơn nắng cực chửa mưa tè,
Rủ chị em ra tát nước khe.
Lẽo đẽo chiếc gầu ba góc chụm,
Lênh đênh một ruộng bốn bờ be.
Xì xòm đáy nước mình nghiêng ngửa,
Nhấp nhổm bên ghềnh đít vắt ve.
Mải việc làm ăn quên cả mệt,
Dạng hang một lúc đã đầy phè.
Bánh Trôi Nước
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm mấy nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
Vấn nguyệt
Trải mấy thu nay vẫn hãy còn,
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn?
Hỏi con Bạch Thố đà bao tuổi?
Hỏi chị Hằng Nga đã mấy con?
Đêm tối cớ sao soi gác tía?
Ngày xanh còn thẹn mấy vầng tròn.
Năm canh lơ lửng chờ ai đó?
Hay có tình riêng mấy nước non?
Tìm hiểu tiểu sử ra đời bài thơ này bạn sẽ hiểu nội dung của nó. Đó là lời tâm sự của người con gái – chính là của Hồ Xuân Hương khi mới biết yêu. Bà đã yêu Nguyễn Du và tự vấn lòng mình: Hỏi vầng trăng vì sao khuyết rồi lại tròn, hỏi con bạch thố trên cung trăng đã bao nhiêu tuổi, chị hằng giờ đã được bao nhiêu con… Rồi hỏi đêm tối cớ sao lại soi duyên khiến nàng với Nguyễn Du khiến lòng lơ lửng, trằn trọc chẳng yên.
2 Duyên Kỳ Ngộ
Nghìn dặm có duyên sự cũng thành,
Xin đừng lo lắng hết xuân xanh.
Tấc gang tay họa thơ không dứt,
Gần gụi cung dương lá vẫn lành.
Tên sẵn bút đề dường chĩnh chện,
Trống mang dùi cắp đã phanh phanh.
Tuy không thả lá trôi dòng ngự,
Đá ông bà chồng
Khéo khéo bày trò tạo hoá công
Ông Chồng đã vậy lại Bà Chồng
Tầng trên tuyết điểm phơ đầu bạc
Thớt dưới sương pha đượm má hồng
Gan nghĩa dãi ra cùng chị Nguyệt
Khối tình cọ mãi với non sông
Đá kia còn biết xuân già giặn
Chả trách người ta lúc trẻ trung
Chùa bài sơn
Khen thay con tạo khéo khôn phàm
Một đố giương ra biết mấy ngàm
Triền đá cỏ leo sờ rậm rạp
Lạch khe nước rỉ mó lam nham
Một sư đầu trọc ngồi khua mõ
Hai tiểu lưng tròn đứng giữ am
Đến nơi mới biết rằng Thánh Hoá
Chồn chân mỏi gối hãy còn ham
30. Chế sư
Chẳng phải Ngô chẳng phải ta
Đầu thì trọc lốc áo không tà
Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm
Vãi nấp sau lưng sáu bảy bà
Khi cảnh khi tiu khi chũm choẹ
Giọng hì giọng hỉ giọng hi ha
Tu lâu có nhẽ lên sư cụ
Ngất nghểu toà sen nọ đó mà
31. Thu vũ
Trời cách mây mù thảm chả xanh,
Mưa thu sân vắng giọt buồn tanh.
Đầu cành cây héo châu dài vắn,
Trên lá tiêu vàng tiếng chậm thanh.
Hát dứt đê mê mơ vạn dặm,
Sầu giăng quạnh quẽ nỗi năm canh.
Khuê sâu rất khổ mày hoa ấy,
Vẻ mặt buồn thương vẽ chẳng thành.
32.Thương Ôi Phận Gái
Thương ôi phận gái cũng là chồng
Ghét bỏ nhau chi hỡi Nguyệt ông
Rồng tắm ao tù từng phận tủi
Mưa gieo xuống giếng uổng lòng mong
Xót thân hoa nở song lầm cát
Thẹn mặt trần ai đứng giữa vòng
Âu hẳn tiền nhân sao đấy tá
Thôi đành một kiếp thế cho xong.
Bài thơ là sự cảm thông sâu sắc của Hồ Xuân hương đối với số phận của người phụ nữ trong xã hội cũ. Lấy chồng nhưng phải chịu cảnh ao tù, phận tủi, phải gánh bao thiệt thòi, uất hận. Bài thơ vừa là tiếng lòng của nhà thơ vừa là lời tố cáo đối với xã hội cũ bất công.
- Thân Phận Người Đàn Bà
Hỡi chị em ơi có biết không
Một bên con khóc một bên chồng.
Bố cu lổm ngồm bò trên bụng,
Thằng bé hu hơ khóc dưới hông.
Tất cả những là thu với vén
Vội vàng nào những bống cùng bông.
Chồng con cái nợ là như thế,
Hỡi chị em ơi có biết không ?
- Miếu Sầm Thái Thú
Ghé mắt trông lên thấy bảng treo
Kìa đền thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu
- Thương Thay Phận Gái
Thương thay phận gái cũng là người
Nỡ bỏ xuân xanh quá nửa đời
Ông Nguyệt nỡ nào trêu quải mãi
Chị Hằng khéo nhẽ éo le thôi
Hoa còn phong nhụy ong ve vãy
Gió đã phai hương bướm tả tơi
Quá ngán thợ trời ghê gớm bấy
Xuân xanh được mấy chút thương ôi
- Tình Có Theo Ai
Tình có theo ai nhớ lấy lời
Những lời vàng đá phải lời chơi
Đường tuy nửa bước xa ngàn dặm
Duyên chửa trăm năm cũng một đời
Tần Tấn đã đành duyên gặp gỡ
Ngô Lào chi quản chuyện xa xôi
Trăng thề muôn kiếp trơ trơ đó
Tình có theo ai nhớ lấy lời
- Thương
Há dám thương đâu kẻ có chồng,
Thương vì một nỗi hãy còn không.
Thương con cuốc rũ kêu mùa Hạ,
Thương cái bèo non giạt bể Ðông.
Thương cha mẹ nhện vương tơ lưới,
Thương vợ chồng Ngâu cách mặt sông.
Ấy thương quân tử thương là thế,
Há dám thương đâu kẻ có chồng.
- Dệt Cửi Đêm
Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau
Con cò mấp máy suốt đêm thâu
Hai chân đạp xuống năng năng nhắc
Một suốt đâm ngang thích thích mau
Rộng hẹp nhỏ to vừa vặn cả
Ngắn dài khuôn khổ vẫn như nhau
Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ
Chờ đến ba thu mới dãi màu
- Cái Quạt
Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa
Duyên này tác hợp tự ngàn xưa
Chành ra ba góc da còn thiếu
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa
Hồ Xuân Hương là một ngòi bút nữ rất đặc biệt trong nền văn học Việt Nam. Vì thế, thơ của bà cũng mang dấu ấn riêng, không thể pha lẫn với bất cứ ngòi bút nào trong cùng thời đại và cả sau này nữa. Nếu bạn yêu quý nhà thơ tài năng này, hãy đọc tuyển tập thơ Hồ Xuân Hương hay nhất hocde.vn sưu tầm nói trên.